bài viết này để các bạn thấy những trường phái hội hoạ (LÝ KÔNG ĐỊNH.sưu tầm)
Mỹ thuật theo dòng lịch sử
1. Trường phái ấn tượng
Bức tranh Village on the Banks of the Seine của Alfred Sisley
Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).
Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát.
Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ có thểnhìn thấy được, sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh đến sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong tranh.
Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: Bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên.
Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet không xem mình thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley
2. Trường phái hậu ấn tượng
Tranh của Vincent Van Gogh
Hậu ấn tượng là tên gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏnhững quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi theo các hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Roger Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên cứu về các họa sĩ này cũng cho thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp thời gian cuối thế kỷ 20.
Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa, màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng tham gia trước đó. Ba họa sĩ Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh với ba phong cách hiện thực đã làm phong phú và đa dạng một thời kỳ ngắn ngủi nhưng vang dội và đầy hấp dẫn của của nghệ thuật. Họ báo hiệu cho các trào lưu sẽ nở rộ ở thế kỷ 20.
3. Trường phái dã thú
Tranh của Matisse
Để chống chọi với trường phái Ấn tượng, quá chú trọng đến ánh sáng mà quên đường nét của cảnh vật, nên trường phái Dã thú ra đời.
Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉmỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽnhư thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờđẹp mắt.
Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ. Phòng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú “, và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.
Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 – 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy….
Hầu hết thành viên của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi. So với khuynh hướng Ấn tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang tính chất đảo lộn, phủ định hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí ” Nổi loạn màu sắc”, Vlaminck và Derain tuyên bố sẽ ” Đốt trụi trường Mỹ thuật bằng các sắc xanh Cobalt và đỏson”.
Để thực hiện tham vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã thú chủtrương phất cao lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên nhiên và sửdụng màu sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên chất tạo sự tương phản mạnh và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối. Theo họ như vậy tranh mới phát huy được hết các cường độ và âm hưởng của màu, mới tương ứng với tình cảm mạnh mẽ của lớp thanh niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội họa đến một không gian chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường điệu. Con người và sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt khoát và đậm. Với họ, bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện những tư tưởng tình cảm và rung động chủ quan của tác giả.
4. Trường phái biểu hiện
Bức tranh Tiếng thét của Edvard Munch
Chủ nghĩa biểu hiện hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính – xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sựkiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại).
Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh.
5. Trường phái lập thể
Tranh của Pablo Picasso
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượngở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.
Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ “lập thể” lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức.
Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ởgần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trởnên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một sốhọa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso.
Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.
Các nghệ sỹ thiên tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dã thú.
Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie Vassilieff, Fritz Wotruba…
6. Trường phái tương lai
Tranh của Umberto Boccioni
Chủ nghĩa tương lai là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách trần trụi sựbất mãn với xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất ở Italy.
Các họa sĩ của trào lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo Carrà, Severini, Luigi Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của trường phái Ấn tượng mới và trường phái Lập thể để chồng chéo hình thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh sáng, qua đó thể hiện một “cảm giác động” và tính đồng thời của các trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp của thế giới.
7. Trường phái Dada (Dadaism)
Tranh của Jean Arp
Những người theo trường phái dadaism đã cố gắng làm rõ tất cả những ý tưởng và nguyên tắc mới lạ.
Ða đa là một phong trào văn học nghệ thuật (nhất là hội hoạ) phản kháng dữ dội của các nghệ sĩ và các nhà văn Âu Mỹ, cống lại sự tự mãn, trong đó, những sức mạnh sáng tạo nghệ thuật được hướng vào việc chống lại nghệ thuật. Phong trào nầy sinh ra do tâm trạng vỡ mộng vì ảnh hưởng của Ðại chiến thế giới lần thứnhất, mà một số nghệ sĩ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau đã phản ứng lại một cách mỉa mai, cay độc, thậm chí với những tư tưởng vô chính phủ nữa. Qua những thể hiện của họ, cái phi lý và tư tưởng phản kháng là hai điểm nổi bật nhất.
Những họa sĩ tham gia trong trường phái Đa đa phải kể: Apollinaire, Marinetti, Picasso, Modigliani, Kandinsky. Tháng 3/1917, một Gallery của trường phái Đa đa ra đờiở Bahnhofstrasse. Tháng 7/1917, cuốn sách đầu tiên của trường phái Đa đa được xuất hiện do hai hoạ sĩ Đa đa thực hiện là Tzana Do Janko và Hans Arp. Một đoạn viết về lịch sử của trường phái Đa đa do Huelsenbeck công bố(7/1920) ở Hanover cho rằng: “Trường phái Đa đa họp tại quán Voltaire tập trung các nghệ sĩ nhạy cảm với sự phát triển những cách thể hiện mới”.
8. Trường phái siêu thực
Tranh của Joan Miró
Trường phái surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng trang và bằng chữ viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa.
Với trường phái hội họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong một phông màn hoặc bí ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng thái không thực.
9. Trường phái ấn tượng trừu tượng
Tranh của Jackson Pollock
Trong khoảng thời gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ mà phong trào nghệ thuật lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này đã đánh dấu một kỷ nghuyên trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao gồm một loại hình nghệ thuật mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại. Trường phái này sử dụng những tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà cửa, công trình và đồ đạc.
10. Trường phái Kinetic Art
Tác phẩm của nhà điêu khắc Naum Gabo
Trường phái nghệ thuật này đóng vai trò rất quan trọng bởi vì nó đã khai thác được các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Bản thân trường phái này đã chứa đựng rất âm bội bao gồm có những âm bội của nền văn hoá nghệ thuật, tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Trường phái này chủ trương khai thác các khía cạnh nghệthuật cảm xúc.
11. Trường phái Pop Art
Bức họa Marilyn Monroe của Rebecca Rhys Butler
Pop Art là trào lưu nghệ thuật mới ra đời ở Anh trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Song nơi nó phát triển rực rỡ nhất và để lại dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật chính là tại Mỹ.
Pop Art nổi tiếng với các bức họa lấy những đề tài bình dân, phổ biến với mọi người như các thần tượng mà mọi người tôn thờ trong ca nhạc, phim ảnh, nhãn mác sản phẩm, tranh quảng cáo, bao bì sản phẩm… thậm chí đôi giày, tờ báo… làm chủ đề chính để sáng tạo nghệ thuật.
Cách thể hiện của trường phái Pop Art chấp nhận tất cả các cách có thể. Bức họa “Marilyn Monroe” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho Pop Art, tác phẩm này thể hiện bằng phương pháp in lưới, bằng máy. Nhiều tác phẩm khác được thểhiện bằng phần mềm máy tính, in bằng máy. Nhiều tác phẩm gắn cả “vật thật” như báo chí, lon bia, chai lọ… lên tranh. Một số bức họa đắt giá nhất của trường phái này vốn là minh họa cho truyện tranh.
12. Trường phái Op Art
Tranh của Victor Vasarely
Sự ra đời của trường phái này được gắn với tạp chí Time. Vào năm 1964, tạp chí này đã đăng một bài báo nói về một làn sóng nghệ thuật mới liên quan đến ảo giác.
13. Trường phái Minimalism
Tranh của Frank Stella
Trường phái này nhận được rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng vì họ khó có thểchấp nhận được một dãy hình lập phương, hai hình chữ nhật đặt cạnh nhau hay năm khối hình hộp treo trên tường lại có thể được gọi là nghệ thuật. Đơn giản hóa mọi thứ tối đa, kiệm lời là đặc điểm của trường phái Minimalism.
14. Trường phái nghệ thuật nhận thức
Tranh của Lucio Fontana
Chính trường phái này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là “nghệ thuật hiên đại”. Ngày nay, trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ thuật nhận diên đã chiếm ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ sỹ của ngày hôm nay không còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập thể nhưng họ đã đào sâu những xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ năm này sang năm khác.
Trường phái nghệ thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập, và trong một khía cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với những tư tưởng nghệthuật mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng cách đây 100 năm.
Các trường phái hội họa khác
Gần gũi nhất với chúng ta ở Châu Á, có thể nói đến các trường phái Thư pháp, Thủy Mặc của Trung Quốc, cũng có sức ảnh hưởng rất lớn tới các quốc gia trong khu vực, và trở thành hiện tượng mới làm ảnh hưởng sang cả Châu Âu, Châu Mỹ.
Kết luận
Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con người càng cao thì các trường phái hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trường phái mới.
----------
Võ Khánh Long sưu tầm
15-09-2012
Giải thưởng Dogma về chân dung tự họa 2012
46 tác phẩm đã được chọn vào vòng chung kết "Giải thưởng Dogma về chân dung tự họa 2012" và đã được công bố tại: Kết quả chung kết Dogma. Các tác phẩm lọt vào vòng chung kết được triển lãm tại Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội (66 Nguyễn Thái Học, Q. Ba Đình).
Triển lãm khai mạc vào hồi 18h thứ sáu ngày 14/9/2012, kết thúc 30/09/2012
Công bố kết quả và phát thưởng trong lễ khai mạc tại Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội.
Giải nhất năm nay thuộc về họa sĩ Ngô Văn Sắc với một tác phẩm độc đáo tạo hình bằng cách đốt trên gỗ tự nhiên. Tác phẩm này được nhận phần thưởng 120 triệu đồng.
Tự họa của Ngô Văn Sắc, Giải nhất cuộc thi Dogma, Kích thước 120cm x 200cm
Ngoài ra, còn có thêm 4 giải ấn tượng (mỗi giải trị giá 20 triệu đồng).
Cuộc thi do họa sĩ Richard San Marzano (người Italy) kết hợp nhà sưu tập tranh Dominic Scriven (người Anh) và Bảo tàng Mỹ thuật TP HCM tổ chức dành cho các nghệ sĩ, tuổi đời từ 18 trở lên, đang cư trú ở Việt Nam. Ban tổ chức chấp nhận mọi thể loại, phong cách thể hiện chân dung tự họa.
Thành phần ban giám khảo của cuộc thi gồm: bà Mã Thanh Cao (thạc sĩ mỹ thuật, Giám đốc bảo tàng Mỹ thuật TP HCM), bà Phạm Thị Như Quỳnh (họa sĩ, nhà phê bình nghệ thuật kiêm giám đốc phòng trưng bày Quỳnh) và ông họa sĩ Richard San Marzano.
Tự họa - Đất nung của Nguyễn Viết Thắng - H79cm
Ông Richard San Marzano chia sẻ: "Lịch sử mỹ thuật thế giới cho thấy, có rất nhiều họa sĩ cũng như danh họa thích vẽ chân dung họ, đó cũng là cách chiêm nghiệm, khám phá bản thân. Chúng tôi muốn lập ra giải thưởng để truyền cảm hứng cho các họa sĩ Việt Nam quan tâm hơn về thể loại này, để từ đó thúc đẩy họ sáng tạo".
Giải Dogma được phát động lần đầu vào năm 2011, và dự kiến được tổ chức định kỳ hàng năm. Đây được xem là sân chơi cho giới nghệ sĩ, họa sĩ mới, và cả người đã có tên tuổi trong nền mỹ thuật Việt Nam.
lý kông định (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét